Việc kiểm tra chloramin(NH2Cl) trong nước dùng để lọc máu là bắt buộc theo tiêu chuẩn ISO 13959: 2014. Tiêu chuẩn đề cập đến việc kiểm tra tổng clo, phân biệt được sự khác nhau giữa clo tự do và clo liên kết có thể giúp ích khi đưa ra quyết định sử dụng phương pháp nào.
Các cơ quan quản lý nước có thể sử dụng Clo tự do hoặc kết hợp để khử trùng nguồn nước uống của khu dân cư. Hầu hết các cơ quan chức năng sử dụng clo tự do vì nó là một chất khử trùng hiệu quả, tuy nhiên các cơ quan này cũng có thể sử dụng Clo liên kết (monochloramine NH2Cl) thay vì clo tự do. Một trong những lý do cho điều này là vì nó có xu hướng tồn tại lâu trong mạng lưới và do đó rất hữu ích nếu vùng bao phủ lớn và dư lượng phải được duy trì đến tận thời điểm sử dụng.
Có rất nhiều phương pháp có thể kiểm tra chất lượng nước để sử dụng cho việc lọc thận. Các đơn vị chạy thận thận đầu tư một lượng tiền lớn để loại bỏ chlorine (Clo) khỏi nước cấp. Quá trình xử lý nước cần phải loại bỏ tất cả các chất gây ô nhiễm (kể cả Clo) bằng cách trao đổi ion và lọc carbon trước khi nó được sử dụng để tạo ra dịch lọc.
Việc này làm cho môi trường thử nghiệm trở nên đặc biệt khó khăn vì chúng ta đang cố gắng tìm kiếm sự vắng mặt của một chất (được gọi là chất phân tích). Khi kiểm tra sự vắng mặt của một chất phân tích thì cần phải biết được giới hạn phát hiện của phương pháp mà chúng đang sử dụng và tính đặc hiệu của phương pháp.
Test strips (kiểm tra dải)
Phương pháp tiêu chuẩn để đo lượng Clo được sử dụng ở nhiều nước trong nhiều năm (bao gồm Anh, Trung Quốc, Úc và Mỹ) đó là test strips. Kiểm tra dải đã được thông qua vì chúng dễ sử dụng và đòi hỏi đầu tư ít.
Hạn chế khi sử dụng phương pháp này đó là chúng không nhạy cảm với clo (chúng có giới hạn phát hiện cao) và không phải tất cả các thương hiệu đều được thiết kế để sử dụng cho các ứng dụng thận vì vậy chúng có thể không đặc hiệu cho Clo liên kết. Do đó, những đo được là Clo tự do hoặc tổng Clo.
Với nhu cầu phát hiện ở giới hạn thấp cần thiết cho các ứng dụng lọc thận thận, cơ hội có kết quả âm tính sai là tương đối cao, bởi các kiểm tra thường phức tạp hơn. Do sự khác biệt về màu sắc có thể nhìn thấy giữa các vạch là Clo từ 0 mg / l đến 0,1 mg / L. Phương pháp này khó có thể đáp ứng được.
Điều này đã dẫn đến động lực trong một thập kỷ qua để chuyển sang các phương pháp kiểm tra định lượng khác ít chủ quan hơn và có giới hạn phát hiện thấp hơn.
Phương pháp DPD (dạng viên hoặc dạng lỏng)
Phương pháp DPD để xác định dư lượng Clo là phương pháp chuẩn trong nhiều ứng dụng khác nhau như nước uống kể từ khi phát minh vào năm 1950 bởi Tiến sĩ Tom Palin của Palintest.
Trong kiểm tra, một lượng chất DPD đã xác định (diethyl p-phenylene diamine) được thêm vào một mẫu nước (thường là 10ml) và kết quả có màu hồng được đo bằng một máy quang kế photometer. Dựa vào lý thuyết cơ bản trong hóa học gọi là luật Lambert Beer cho phép tính tương quan nồng độ của một chất phân tích với độ hấp thụ của nó tại một bước sóng ánh sáng nhất định. DPD có thể được thêm vào mẫu dưới dạng chất lỏng hoặc viên.
Ưu điểm của thuốc thử dạng viên là chúng ổn định hơn theo thời gian dẫn đến bảo quản DPD được dài lâu nếu tần suất kiểm tra thấp. Ưu điểm của thuốc thử lỏng là chúng có xu hướng dễ sử dụng hơn.
Trong kiểm tra, DPD được thêm vào mẫu và phản ứng với clo tự do để tạo ra màu hồng mà có thể được đo bằng quang kế.
Ngoài ra, một viên nén DPD 4 có thể được sử dụng nhưng nó chỉ đo được tổng clo, việc này cũng tốt nếu bạn chỉ muốn đảm bảo phù hợp với tiêu chuẩn ISO 13959.
Giới hạn phát hiện của phương pháp DPD là 0,02 mg / L. Đây là một phương pháp kiểm tra định tính do đó phù hợp để kiểm tra nước sử dụng trong sản xuất dịch lọc. Tuy nhiên vẫn đòi hỏi một chút đào tạo để người dùng để làm quen.
Công nghệ cảm biến
Trong những năm gần đây, nhiều đơn vị chạy thận đã bắt đầu sử dụng ChloroSense được thiết kế để tương đương về mặt hiệu suất với DPD nhưng cần đào tạo ít hơn vì nó dễ sử dụng hơn. Sử dụng ChloroSense có kỹ thuật phân tích khác với DPD. Giới hạn phát hiện của nó cao hơn một chút so với DPD (0,04 mg / L) nhưng vẫn là phương pháp thích hợp cho các đơn vị chạy thận có tiêu chuẩn pass/fail là 0,1 mg / L so với tổng Clo.
Tổng kết
Hiểu được các dạng của Clo được sử dụng bởi cơ quan địa phương của bạn là rất quan trọng để quyết định sử dụng phương pháp kiểm tra nào. Hiểu biết về hóa học được sử dụng bởi mỗi phương pháp và khả năng của nó. Lựa chọn phương pháp xét nghiệm đúng là rất quan trọng để sản xuất dịch lọc chất lượng cao và đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.